Phong tục đón Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam
Miền Bắc
Người miền Bắc rất quan trọng mâm cỗ Tết, lúc nào cũng bánh chưng, dưa hành, thịt đông, canh bóng hoặc canh măng ấm áp.
Mâm ngũ quả được bày biện cầu kỳ với 5 loại quả tượng trưng cho ngũ hành. Trong trang trí nhà cửa, người Bắc thích chọn bích đào, đào phai hoặc quất.
Về phong tục, ở miền Bắc, giới trẻ đặc biệt chú trọng việc sum vầy bên gia đình thay vì đi du lịch xa.
Miền Trung
Người miền Trung ăn bánh tét, kèm với dưa món chua, giò bò tiêu hột cùng đặc sản là tré từ tai, bì lợn trộn thính!
Mâm ngũ quả là những loại quả tròn, thơm như lời cầu chúc năm mới viên mãn. Ở dải đất này, người dân có thể chọn mọi loại hoa tươi thể hiện được không khí xuân về.
Tết của người miền Trung là Tết đoàn viên đúng nghĩa của những đứa con xa xứ, là dịp đặc biệt để giới trẻ trở về nhà sum vầy cùng người yêu thương.
Miền Nam
Trong dịp Tết, ngôi nhà của người miền Nam không thể thiếu mâm cỗ với bánh tét, củ kiệu, tôm khô, canh khổ qua…
Mâm ngũ quả với mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài (đọc chệch thành “cầu sung (túc) vừa đủ xài”) và cây mai vàng trang trí.
Những người dân ở đầu kia của dải đất hình chữ S không quá câu nệ về nghi lễ đón Tết. Bên cạnh lựa chọn truyền thống là đoàn viên, sum họp bên gia đình, các bạn trẻ miền Nam thường có xu hướng đi chơi, đến nhà bạn bè để chúc Tết và cùng ngồi trò chuyện.
Phong tục đón Tết của các dân tộc miền núi
Tết nhảy của người Dao
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là “Nhiang chằm Ðao” để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước Tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã…
Lễ hội Gầu Tào của người Mông
Lễ hội Gầu Tào của người Mông diễn ra trong khoảng từ mùng một đến ngày rằm tháng Giêng. Đây là một nét đẹp văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào Mông ở các tỉnh vùng cao phía Bắc.
Nghi lễ đặc sắc là dựng cây nêu báo hiệu cho mọi người biết gia chủ tổ chức lễ hội. Cây nêu là một cây tre cao từ 10 đến 12 m, thân tre gióng thẳng, nhẵn, mầu xanh bóng, ngọn tre để nguyên lá, trang trí chung quanh nhiều mầu sắc.
Sau khi gia chủ và thầy cúng cúng lễ, gia chủ sẽ hát những bài ca ngợi bản mường, chúc tụng mọi người nhân dịp năm mới.
Các chàng trai, cô gái trong trang phục dân tộc thổi khèn, múa khèn, mời nhau rượu ngô và cùng say trong tiếng khèn; tổ chức những trò chơi truyền thống như đánh yến, leo cột lấy bầu rượu.
Sau ba ngày hội, chủ lễ hạ cây nêu sau đó vác về nhà gia chủ. Nghi lễ đón cây nêu diễn ra tại cửa nhà.
Tết của dân tộc Nùng
Mâm lễ cúng tổ tiên đêm 30 Tết cũng như trong bữa cơm Tết của người Nùng là món thịt gà sống thiến.
Sáng mùng một, người con rể phải đi lễ bố mẹ vợ một đôi gà sống thiến. Hai món nữa không thể thiếu đối với Tết của bà con dân tộc Nùng là bánh khảo, xôi ngũ sắc (vàng, trắng, hai sắc của đỏ gấc, đen).
Từ ngày 28 và 29 tháng Chạp, người Nùng đã nghỉ ngơi, vệ sinh nhà cửa, cọ rửa đồ nông cụ, dán giấy đỏ cúng hồn các vật dụng lao động; trước cửa treo câu đối Tết viết bằng chữ Nôm Nùng…
Các trò chơi phổ biến trong ngày Tết của người Nùng là ném còn, đá cầu, hát đối nam nữ, đánh võ cổ truyền, đánh gậy; trẻ con chơi quay, múa sư tử…
Tết của dân tộc Mường – Sơn La
Đối với người Mường ở Sơn La, Tết Nguyên Đán là cái Tết quan trọng nhất, lớn nhất trong năm.
Trong dịp Tết, mỗi nhà tổ chức một bữa cơm thịnh soạn để cúng tổ tiên và thần thánh. Trong một mâm thờ thường có các lễ vật như: bánh chưng và mật, rượu, cơm nếp, thịt luộc, chả rang và dồi, quếch, một ít tiền, một bát nước lã, trầu cau, mắm muối.
Thông thường, bàn thờ tổ tiên được đặt 3 mâm: mâm ngoài cùng thờ bố mẹ, mâm ở giữa thờ ông bà, mâm trong cùng thờ cụ kỵ. Khi các mâm lễ được đặt vào đúng vị trí, thầy cúng bắt đầu thực hiện khấn lễ.
Trong bữa cơm ngày Tết, ngoài các món có trong mâm thờ còn có thêm món ớt, nộm thịt thủ lợn, các loại rau đắng đồ, măng đắng đồ.
Trước khi ăn, con cháu xếp hàng lạy kính cha mẹ, ông bà. Người già nói lời chúc cho con cháu sang năm mới mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt. Sau khi đã ổn định chỗ ngồi, mọi người mời nhau uống rượu, mời ăn lần lượt các món.
Sự mời mọc diễn ra liên tục suốt bữa cỗ, kèm theo những câu hát bọ mẹng, hát ví, mo, kể chuyện tình… làm cho không khí bữa ăn thêm vui vẻ và ấm cúng.
Tết của dân tộc Hà Nhì – Điện Biên
Dân tộc Hà Nhì ở Điện Biên thường tổ chức đón Tết trước Tết Nguyên Đán của người Kinh khoảng 2 tháng và kéo dài khoảng 1 tuần.
Việc đón Tết vào ngày nào không được ấn định thành truyền thống như Tết của người Kinh mà do Hội đồng già làng, trưởng bản bàn bạc và thống nhất để áp dụng cho từng năm, dựa trên các yếu tố: thời tiết, mùa màng, khả năng kinh tế chung của mỗi gia đình…
Sau khi thời điểm đã được xác định, theo phong tục, buổi chiều tất niên, mỗi gia đình cúng một con gà để tiễn biệt năm cũ. Người Hà Nhì không gói bánh chưng mà thay vào đó là bánh gù, loại bánh hình ống, dài hơn một gang tay; ngoài ra còn có bánh dầy, bánh trôi.
Trong dịp Tết, những người cao tuổi lập thành từng nhóm để đi chúc Tết các gia đình trong nhóm và trong họ.
Tại bữa tiệc khoản đãi, người khách quý nhất sẽ được mời một mâm riêng, một bên bày 6 chén rượu (4 chén để “rửa” chân tay, 1 chén “rửa” mặt, còn 1 chén để uống), một bên đặt 1 giỏ cơm (trong giỏ có 1 khoanh thịt mỡ đã luộc chín, ở giữa nhét mấy quả ớt đỏ).
Người khách được quyền lựa chọn một trong hai bên rồi đặt lên mâm tiền mừng tuổi và hát một bài cám ơn, cầu mong điều may mắn, hạnh phúc cho gia chủ.
Tết của dân tộc Tày
Dân tộc Tày hiện có gần 1,5 triệu người, sống chủ yếu ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Quảng Ninh.
Tết của dân tộc Tày bắt đầu vào 30 và kết thúc (lễ tạ tổ tiên) vào khoảng sáng mùng Ba. Mùng Bảy, họ ra đồng làm việc nhưng chỉ mang tính hình thức. Đến ngày 15, họ ăn Tết lại, gần giống như ăn rằm tháng Giêng của người Kinh, nhưng người Tày thì gọi là ăn Tết lại.
Ngày 27 hay 28, các gia đình đã thịt lợn, gói bánh chưng… Bàn thờ được lau chùi, người ta buộc bốn cây mía vào bốn góc chân bàn thờ, quan niệm đó là cái gậy để tổ tiên chống. Tối 30, vừa tiếp khách đến chơi, phụ nữ trong nhà vừa làm bỏng, chè lam, bánh khảo.
Khác với người Thái, người Tày kiêng sáng mùng Một có người không mời mà vào nhà. Họ chọn mời người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn, kị nhất là người có tang… Đàn ông Tày mùng Một chơi cha (tức bố mẹ vợ), mùng ba chơi thầy (thầy cúng).
Một số trò chơi cũng được phát động trong Tết mà phổ biến nhất là tung còn. Ra xuân, người Tày còn có hội lồng tồng (xuống đồng).
Vào dịp Tết, người ta mặc những bộ quần áo đẹp nhất đi chơi. Màu sắc áo Tày khá trầm. Phụ nữ mặc áo dài màu chàm 5 thân, một thân ngắn, bốn thân dài, ống tay hẹp, thắt lưng cũng màu chàm bỏ mối ra phía sau lưng, đầu đội khăn vuông chàm, trong có vải quấn tóc màu đen hoặc chàm, chân đi hài thêu mũi cong hình mỏ gà.
Tết của dân tộc Phù Lá – Lào Cai
Người Phù Lá ở Lào Cai ăn Tết chính trong 3 ngày, từ mùng 1 đến mùng 3 tháng Giêng, nhưng các hoạt động vui xuân thường kéo dài đến hết ngày 15, sau đó mới bắt đầu bước vào lao động sản xuất cho một mùa vụ mới.
Để chuẩn bị đón Tết, từ tháng Chạp, đồng bào đã chuẩn bị củi, dự trữ rau, sấy khô cá, nấu rượu và tìm lá dong để gói bánh chưng. Ngoài bánh chưng, bánh dầy, người Phù Lá còn có nhiều món ăn ngày Tết đa dạng và độc đáo.
Vào ngày 30 Tết, mỗi gia đình thường vào rừng lấy một ngọn trúc về để quét dọn nhà và đặt lên bàn thờ tổ tiên, với mong muốn quét sạch mọi cái xấu của năm cũ và đón một năm mới an lành, bội thu.
Ngày mùng 1 Tết, tất cả mọi người đều diện những bộ trang phục mới và đẹp nhất, đi chúc Tết bố mẹ, ông bà, người thân và hàng xóm. Trong tiếng khèn, điệu hát, lời ca rộn rã, người già gặp nhau trầm ấm bên chén rượu trong khi thanh niên, trẻ nhỏ hòa mình vào các trò chơi đu quay, đá cầu, trốn tìm, đánh cỏ, chơi cù…
Theo: Giadinhmoi